SKKN Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn Lớp 3 - Năm học 2017-2018 - Phạm Thị Mừng

  1. Tình hình:

     - Trường Tiểu học B Long An nằm trên địa bàn xã Long An diện tích trường khá rộng lớp học được mở rộng thu hút nhiều học sinh trên địa bàn và một bộ phận nhỏ học sinh trái địa bàn. Năm 2016-2017 xã được công nhận là xã nông thôn mới và như vậy trường cũng được công nhận là trường Chuẩn Quốc Gia. Tạo điều kiện cho sư quan tâm giúp đỡ chính quyền địa phương, của ngành trường còn được sự ủng hộ nhiệt của quý cha mẹ học sinh đưa phong trào giáo dục được phát triển mạnh.

b) Thuận lợi: 

- Với sự quan tâm của nhà trường. Các em vào học lớp 2 thì các em có đầy đủ đồ dùng học tập, có một số em chuẩn bị bài trước khi đến lớp và khá thuận lợi đa số có cùng một độ tuổi trong cùng địa bàn.

- Đa số các em nhà gần trường nên tạo điều kiện cho các em tỉ lệ đi học đều khá cao.

- Trường chuẩn bị đạt chuẩn thì cơ sở vật chất của trường tương đối khang trang, lớp học rộng rãi cũng tạo điều kiện cho các em học tập tốt.

c) Khó khăn:                                

- Phần lớn học sinh là con của nông dân nên việc quan tâm của cha mẹ còn hạn chế nên việc học của học sinh hoàn toàn dựa vào giáo viên là nhiều. Nên việc học ở nhà các em ít tự học.

- Khi đến môn Tập làm văn các em đọc đề một cách qua loa chứ các em không phân tích đề kĩ nên các dễ bị lạc đề.

- Ngay từ đầu năm học, các em được làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn    văn từ 5 đến 7 câu. Khi làm bài các em thì có em viết  không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm chưa đảm bảo về số câu hoặc viết không đủ ý.

-Tên sáng kiến:Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn lớp 3 

- Lĩnh vực: Chuyên môn

doc 19 trang minhlee 06/03/2023 4220
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn Lớp 3 - Năm học 2017-2018 - Phạm Thị Mừng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_nhung_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_mon_tap_lam_van_l.doc

Nội dung text: SKKN Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn Lớp 3 - Năm học 2017-2018 - Phạm Thị Mừng

  1. - Giáo viên kể chuyện 2 lần ( nội dung truyện có trong SGV như trên) học sinh đối chiếu giữa nội dung truyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh ở phần b của bài tập. Ví dụ : Câu hỏi gợi ý a. Thử đoán nội dung b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể Câu chuyện có mấy nhân Chuyện có hai nhân vật Chuyện có hai nhân vật vật Họ đang làm gì? Họ đang nói chuyện với Người mẹ dọa sẽ đổi cậu bé để nhau lấy một đưa con ngoan về nuôi. Người mẹ đã nói với con Người mẹ nói với con Người mẹ nói sẽ đối con để lấy điều gì? người con trả lời phải ngoan, nghe lời mẹ. đứa con ngoan về nuôi. Người mẹ ra sao? Người con ngồi im lặng. con trả lời với mẹ là mẹ chẳng bao giờ đổi được đâu vì không ai dại gì mà đổi đứa con ngoan lấy đưa con nghịch ngợm cả. Kết quả câu chuyện như Người con không nghe Dại gì mà đổi một đứa con thế nào? lời mẹ ngoan lấy một đứa con nghịch. Giáo viên bao quát lớp, kèm cặp thêm cho học sinh chưa hoàn thành - Cho học sinh trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa truyện: câu chuyện buồn cười ở chổ nào? (Truyện buồn cười vì cậu bé nghịch ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm.) Giáo viên chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả. - Cho học sinh kể lại chuyện theo nhóm. - Đại diện nhóm kể lại trước lớp. Cả lớp nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét chung. Cách 2: Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng. - Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng. - Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết nữa phần đầu của truyện( ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các sự kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã có trên bảng). Trang 9
  2. - Cháu nhức đầu à? Có cần dầu xoa không? Anh thanh niên nói nhỏ: - Không ạ. Cháu không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.” - Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm. - Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp. - Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung. - Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên chuyến xe buýt không biết nhường chổ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và giải thích rất buồn cười là không nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng. - Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì? - Giáo viên nhận xét chung . Cách 4: Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (băng cách vẽ ô tròn và trên đó ghi tên nhân vật) Ví dụ: Nghe kể lại chuyện “Người bán quạt may mắn” nổi tiếng chữ đẹp nghỉ phàn nàn quạt ế thiu thiu ngủ mát Ông Vương Hi Bà lão bán Chi quạt lấy bút mực ra bắt đền ông viết vào quạt thu xếp Vương bán quạt chạy bút mực ra đi - Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật một số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng mạng câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý. - Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện (theo nhóm).Một số học sinh nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp. - Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo cặp (hay nhóm). Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện. Trang 11
  3. - Học sinh tập nói theo (nhóm lớn). - Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét. - Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết. Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo viên Giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập. Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể- Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (Tiếng Việt Tập 2A) 1. Chuẩn bị: Phiếu học tập a Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là Chi tiết làm em xúc động nhất Giọng quê hương Quê hương Đất quý, đất yêu Vẽ quê hương Chõ bánh khúc của dì tôi b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý. Qua các bài đọc trên em thấy quê hương: + Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. Trang 13
  4. - GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh chưa hoàn thành để giúp các em điều chỉnh. Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói - GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp. Ví dụ : Gia đình tớ có 5 người : Bố mẹ tớ, anh Thắng, chị Hà và tớ. Bố tớ là công nhân lâm trường. Mẹ tớ ở nhà làm ruộng. Anh Thắng, chị Hà đều là học sinh. Mẹ tớ rất hiền. Những lúc nhàn rỗi, mẹ tớ thường kể chuyện cho tớ nghe. Lúc nào về nhà, bố cũng mua quà cho anh em. Gia đình tớ rất hạnh phúc. - Cả lớp nhận xét, GV sữa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu sai). Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3, chúng ta sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa . Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn. Ví dụ khi dạy đề bài: Nói về quê hương em (Tiếng Việt Tập1B), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa: Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu( các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về quê hương dễ dàng hơn. Ví dụ1: Quê hương em ở thành phố. Ở nơi đây có nhiều nhà cao tầng, xe cộ đông đúc, náo nhiệt. Những ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem công viên, đi siêu thị ăn kem thật là thích. Em rất yêu quê hương của mình. Trang 15
  5. V. Hiệu quả đạt được 1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: 1.1. Trước khi áp dụng sáng kiến: Khi chưa áp dụng sang kiến thì lớp số học sinh chưa hoàn thành khá cao đối với môn Tiếng Việt đặt biệt là môn Tập làm văn như học sinh chưa hoàn thành số lượng: 24 em; tỉ lệ: 77,42%. Khi mới vừa nhận lớp tôi quan sát việc thực hiện bài làm của các em đối với môn Tập làm văn. Các em làm bài còn cẩu thả, không đúng yêu cầu, viết lan man và khi viết đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Chính vì lí do đó dẫn đến các em không thích thú học tập làm văn hay rất sợ đến tiết này. 2.2. Sau khi áp dụng sáng kiến: Qua thực nghiệm đề tài, sau khi sử dụng các phương pháp trên tôi nhận thấy chất lượng học Tiếng Việt đặt biệt là tập làm văn của HS tiến bộ rõ rệt. Các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Hầu hết các em kể được theo yêu cầu, lời nói tròn câu hơn trước. Kĩ năng giao tiếp của HS phát triển tốt hơn. * Đối với học sinh: Kết quả thu được: Năm 2016 -2017: Học sinh hoàn thành Học sinh chưa hoàn thành Học kì Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Cuối học kì I 24 77,42% 7 22,58% Cuối năm học 31 100% Từ các số liệu trên, tôi thấy rằng học sinh lớp tôi học môn Tiếng Việt đặt biệt là môn Tập làm văn có tiến bộ nhiều so với đầu năm học, các em dùng từ ngữ phong phú hơn, viết bài mạch lạc hơn, các em còn sang tạo trong bài viết của mình. Số học sinh hoàn thành được tăng lên, tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành giảm rõ rệt. Tôi thấy rằng việc sử dụng các biện pháp trên là rất quan trọng. * Đối với giáo viên: - Có nhiều thời gian để mở rộng kiến thức cho học sinh hơn, dễ dàng hướng dẫn học sinh tiếp thu bài sau mỗi giờ lên lớp. - Có nhiều thời gian tập chung vào các em chưa hoàn thành nhiều hơn. Phát huy tích cực trong việc dạy học - Giúp cho tôi có thời gian quan tâm hết tất cả học sinh trong lớp được chu đáo hơn trong khi giảng dạy. 2. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến * Đối với học sinh: - Các em có tinh thần học hơn trước, không còn lo sợ khi mỗi lần đến tiết Tập làm văn. - Học sinh tích cực học tập hơn so với đầu năm, đặt biệt là với các em chưa hoàn thành. - Các em giao tiếp mạnh dạn hơn trên lớp và kể ngoài lớp học. * Đối với giáo viên: - Qua quá trình nghiên cứu tôi thấy được nhiều điều bổ ích cho nghiệp vụ chuyên môn và cũng đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giảng dạy - Giúp tôi chủ động hơn trong việc dạy. Trang 17
  6. gặt hái được nhiều thành công trong công việc đều phải có lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. - Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với các dạng bài tập: “Nghe - kể lại chuyện”; “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình. - Từ đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn hơn. Giúp cho các em có hứng thú học tập cho học sinh. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn tập làm văn ở lớp 3. Phát huy vai trò học tốt của các em. Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những hạn chế, cũng rất mong được sự đóng góp ý kiến, chia sẽ nhiệt tình của các cấp trên và cùng các bạn đồng nghiệp, để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến Phạm Thị Mừng Trang 19