SKKN Một số biện pháp kèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 - Năm học 2017-2018 - Huỳnh Thanh Chớn

1.Thuận lợi:

           - Trường chỉ có một điểm tập trung, sân trường bằng phẳng, rộng rãi thoáng mát cả mặt tiền và hậu, có đầy đủ sân chơi và bãi tập cho học sinh, có đủ các phòng chức năng để phục vụ dạy học. Mỗi phòng là một lớp độc lập và được được dạy 2 buổi /ngày (đối với học sinh lớp 1, 4, 5). 

           - Đối với học sinh chưa hoàn thành các kĩ năng như: đọc, viết, tính…được giáo viên lên kế hoạch phụ đạo kịp thời ở từng thời điểm và có đăng kí với Ban giam hiệu nhà trường.

- Bản thân giáo viên chúng tôi đã được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo ngành, chuyên môn Phòng Giáo dục đến ban Giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn các khối lớp 4. 

- Chúng tôi được học tập và tiếp thu kĩ nội dung chương trình và phương pháp dạy học mới. Đội ngũ giáo viên trong trường yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, thường xuyên thao giảng, dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm, nhằm cải tiến phương pháp để nâng cao chất lượng dạy học. 

- Chương trình sách giáo khoa gồm các bài tập đọc đa dạng về thể loại (văn, thơ, kịch), phong phú về nội dung, được bố trí phù hợp theo chủ điểm. Phương pháp dạy học mới, chú trọng về rèn đọc hơn ở phương pháp dạy học cũ, có yêu cầu đạt chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài học rõ ràng giúp giáo viên tiến hành các tiết dạy một cách lôgic, nhẹ nhàng và hiệu quả.

             - Thư viện trường khang trang thoáng mát có đầy đủ sách, báo cho học sinh đọc. Ngoài ra, trong lớp học còn có góc thư viện. Tạo cơ hội cho các em được tăng thời lượng và thể hiện kĩ năng đọc của mình trước lớp.

doc 13 trang minhlee 06/03/2023 4340
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp kèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 - Năm học 2017-2018 - Huỳnh Thanh Chớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ken_ky_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_4_nam.doc

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp kèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 - Năm học 2017-2018 - Huỳnh Thanh Chớn

  1. - Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: Những biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 - Lĩnh vực: Chuyên môn III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: Hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Làm cho học sinh thêm yêu cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt. Giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc, góp phần nâng cao chất lượng đọc tốt các văn bản như: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Những biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 4. Củng cố các cách đọc cho học sinh, từ đó hình thành cho học sinh lòng ham đọc sách, thói quen làm việc với các văn bản và thường xuyên đọc nhiều văn bản để có ích cho cuộc sống. * Nhiệm vụ Tìm ra các phương pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc và từng bước góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Thông qua việc hướng dẫn học sinh học tốt phân môn tập đọc nhằm thu hút học sinh đến lớp, làm cho học sinh yêu quý tiếng Việt, hứng thú tham gia vào các hoạt động của phân môn Tập đọc trong môn Tiếng Việt, đồng thời giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt thành thạo ở bậc tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng, phân môn tập đọc có 2 yêu cầu chính là: - Rèn luyện kỹ năng đọc. - Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn. So với lớp học dưới, học sinh lớp 4 có điều kiện và kỹ năng đọc diễn cảm tốt hơn nhưng chỉ ở mức độ ban đầu (đọc diễn cảm một Đoạn văn, khổ thơ). Học sinh được Trang 2
  2. Môn Tập đọc trang bị cho học sinh một số kỹ năng cơ bản cần thiết cho việc tiếp tục học tập hoặc đi vào thực tế cuộc sống lao động. Từng bước hoàn thiện, rèn luyện phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển hợp lí phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Bước đầu hình thành cho học sinh cách đọc đúng và phát triển cho các em cách đọc hay, đọc diễn cảm, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú cho các em học tập môn Tập đọc. Muốn đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, tích cực quan tâm đến từng học sinh, thường xuyên kiểm tra – đánh giá, khen thưởng kịp thời – đúng lúc đối với những học sinh chưa hoàn thành. Từ đó các em sẽ học tập tốt hơn, có một số kiến thức vững vàng hơn để giúp các em có đủ năng lực và trình độ học tiếp các lớp lớn hơn và cao hơn. Có như vậy thì mới có khả năng đem lại một hiệu quả thiết thực theo mong muốn của mình cũng như của người làm công tác giáo dục. 3. Nội dung sáng kiến: Trong quá trình giảng dạy lớp 4, tôi nhận thấy rằng để hình thành năng lực đọc tốt, đọc hiểu văn bản cho học sinh, tiến tới giúp học sinh đọc diễn cảm chính là cái đích của dạy Tập đọc mà giáo viên mong muốn, cần phải có những biện pháp để rèn đọc đúng cho học sinh, cách ngắt nghỉ hơi, luyện đọc hiểu, đọc diễn cảm đúng. 3.1. Tiến trình thực hiện: Những biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 được thực hiện từ năm học 2015 – 2016 thấy sự tiến bộ từ học sinh rất nhiều, hiệu quả cuối năm đạt chất lượng cao. Vậy nên tôi tiếp tục áp dụng vào lớp 4A, khối 4 trường tiểu học B Long An, năm học 2016-2017. Nếu áp dụng đề tài trên tốt sẽ xây dựng được lớp học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện, Trang 4
  3. Cách sử dụng trên đã được tôi áp dụng từ đầu năm học và thường xuyên trong các giờ học tập đọc. Chính vì vậy học sinh lớp tôi phần lớn đã đọc phát âm đúng ngay trong những tháng đầu năm của học kì I. b) Luyện cách ngắt, nghỉ hơi: Bên cạnh việc hướng dẫn cho học sinh đọc đúng các tiếng - từ khó, tôi hướng dẫn các em đọc đúng cách ngắt hơi, nghỉ hơi và ngữ điệu câu. Để học sinh ngắt giọng logic – đúng, tôi đã hướng dẫn các đọc như sau: - Ngắt sau dấu phẩy: là dấu được đặt vào khi câu văn chưa hoàn chỉnh sẽ còn ý tiếp nối. Sau dấu phẩy nghỉ hơi ngắn và lên giọng một chút. - Ngắt sau dấu chấm: là dấu báo hiệu ý trọn vẹn. Vì vậy, nghỉ hơi dài hơn so với dấu phẩy và bằng một nửa thời gian dấu chấm xuống dòng và hạ thấp giọng. - Ngắt hơi sau dấu hai chấm: là dấu báo hiệu điều sẽ được trình bày, giải thích, thuyết minh vấn đề vừa nêu. Khi đọc ngừng lại một chút và hơi hạ giọng. - Đặc biệt với những câu có dấu chấm lửng, khi đọc học sinh còn lúng túng không biết đọc như thế nào, tôi hướng dẫn học sinh đọc kéo dài chỗ có dấu chấm lửng. Hoặc với câu chỉ nói ngập ngừng, chưa nói hết thì khi đọc cần nghỉ hơi một quãng bằng thời gian phát âm một tiếng và đọc với ngữ điệu yếu. Ví dụ: “Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh.” (Bài: “Tre Việt Nam”, Tiếng Việt 4 – tập 1). Với những câu dài, không có dấu phẩy ta cần dựa vào nghĩa của từ để ngắt câu. Nhờ hiểu nghĩa và các mối quan hệ ngữ pháp mà học sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngược lại, chỗ ngắt giọng cũng là một căn cứ để người nghe xác định được ý nghĩa, nội dung bài đọc. Muốn hướng dẫn học sinh đọc những câu này tôi đã tìm hiểu, soạn trước những câu văn dài, xác lập chỗ cần ngắt giọng hoặc những câu văn không dài nhưng học sinh khó xác lập được đúng cách ngắt, nghỉ. Với loại câu này tôi gọi học sinh nêu cách ngắt, nghỉ hơi, gạch dưới những từ cần nhấn giọng để học sinh tìm ra cách đọc, giáo viên là người nhận xét – bổ sung. Sau đó có thể cho học sinh luyện đọc theo cách đọc các em vừa tìm hiểu. Ví dụ: Bài (“Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi) – Tiếng Việt 4 - tập 1. “Trên một chiếc tàu,/ông dán dòng chữ/ “Người ta thì đi tàu ta”/ và treo một cái ống/ để khách nào đồng tình với ông/ thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho chủ tàu.//” Ngoài ra, để đọc đúng, tôi còn yêu cầu học sinh khi đọc: không được đọc tách một từ ra làm hai (mềm/mại ). Ví dụ: không đọc: “Cánh diều mềm/ mại như cánh bướm.” mà đọc là “Cánh diều mềm mại như cánh bướm.” (Bài: “Cánh diều tuổi thơ” – Tiếng việt 4-tập 1) - Không tách từ chỉ lọai với danh từ mà nó đi kèm. (rặng/ dừa) Ví dụ: không đọc: “Con sông chảy có rặng/ dừa nghiêng soi.” mà đọc là “Con sông chảy/ có rặng dừa nghiêng soi.” (Bài: “Truyện cổ nước mình” – Tiếng Việt 4 – tập 1) - Không tách quan hệ từ “là” với danh từ đi sau nó. Trang 6
  4. - Giáo viên chốt ý: Nhịp đọc hơi nhanh, có thể ngắt hơi và nhấn giọng như sau: “Phượng không phải là một đóa,/ không phải vài cành,/ phượng đây là cả một lọat,/ cả một vùng,/ cả một góc trời đỏ rực.// Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi ;// người ta quên đóa hoa,/ chỉ nghĩ đến cây,/ đến hàng,/ đến những tán lá lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm/ đậu khít nhau.// Tiến hành tương tự như đoạn 1; với đoạn 2, 3 tôi để học sinh nhận ra cách đọc và đọc diễn cảm. Chẳng hạn: - Đoạn 2: Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả vẻ đẹp của lá phượng: xanh um, mát rượi, ngon lành, e, xòe ra. Cụm từ: “ Mùa hoa phượng bắt đầu” ; “Hoa nở lúc nào mà bất ngờ vậy?” đọc với giọng ngạc nhiên thể hiện tâm trạng ngạc nhiên của cậu học trò (nhấn giọng: “ bất ngờ vậy” ) - Đoạn 3: Gợi tả vẻ đẹp của hoa phượng. Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ: đỏ còn non, tươi dịu, đậm dần, mạnh mẽ kêu vang, rực lên. Chú ý thể hiện tình cảm yêu thích, giọng vui. - Với bài Tập đọc là truyện kể: Tôi hướng dẫn các em đọc đúng lời của nhân vật và chuyển giọng linh hoạt cho phù hợp với từng nhân vật để làm rõ tính cách của nhân vật đó. Ví dụ: Khi dạy bài “ Những hạt thóc giống” Tiếng Việt 4 tập 1. - Lời người dẫn chuyện: đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi. Thấp hơn lời nói của Vua và Chôm. - Lời của Chôm lúc tâu Vua: Ngây thơ, lo lắng: “ Tâu bệ hạ ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.” - Lời nói của Vua lúc giải thích thóc đã luộc kỹ: ôn tồn: “ Trước khi phát thóc giống ta đã cho luộc kỹ. lẽ nào thóc ấy còn mọc được ? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta !” - Lời nói của Vua lúc khen ngợi Chôm: dõng dạc: “ Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.” Để rèn luyện khả năng đọc đúng các câu đối thọai, đúng giọng của các nhân vật, tôi tổ chức cho các em đọc phân vai theo nhóm, thi đua, bình chọn bạn, nhóm đọc hay nhất. Trên cơ sở đọc và sửa trong nhóm, đọc trước lớp, các em sẽ biết đọc đúng các câu đối thoại và biết thể hiện rõ tính cách của từng nhân vật. đ) Luyện đọc nhấn giọng: * Nhấn giọng vào điệp ngữ: Ví dụ: Bài “Tre Việt Nam” – Tiếng Việt 4 – tập 1. Trang 8
  5. 29 14 48,27% 15 51,72% 0 0 2. Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng: * Về phía học sinh: - Chất lượng đọc của lớp được nâng lên rất nhiều. Hiện tại, hiện tượng đọc sai tiếng không còn nữa. Học sinh đọc lưu loát, đọc có ngữ điệu, nhiều em có giọng đọc hay, lôi cuốn người nghe như em: Cương, Mỹ Diện, Luân, * Sau khi áp dụng sáng kiến kết quả đạt được như sau: Năm học HTT HT CHT 2016-2017 Tổng số SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 29 14 48,27% 15 51,72% 0 0 * Về phía giáo viên: Khi thực hiện đề tài này đã giúp tôi giảng dạy tốt hơn, tự tin hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng dạy – học của giáo viên và học sinh. * Đối với tổ chuyên môn: Đề tài này áp dụng ở lớp tôi rất hiệu quả, nên tôi đã thông qua tổ chuyên môn được nhiều giáo viên chia sẻ và thực hiện. Kết quả mang lại rất khả quan, chất lượng đọc năm sau cao hơn năm trước và được áp dụng thường xuyên qua những giờ Tập đọc. V. Mức độ ảnh hưởng: 1. Khả năng áp dụng giải pháp: Qua áp dụng sáng kiến này tôi thấy mang lại hiệu quả rất cao không riêng ở lớp tôi mà còn thực hiện tốt cả khối trong trường tiểu học B Long An, áp dụng được các trường học trong Thị xã và trong tỉnh An Giang. Là nền tảng vững chắc cho cả bậc tiểu học. 2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó: Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Để học sinh đạt được kết quả cao trong học tập, ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên phải luôn luôn theo dõi những tiến bộ trong học tập của học sinh, qua đó kịp thời cải tiến, điều chỉnh hoạt động dạy cho có hiệu quả hơn. Điều quan trọng là với lương tâm và trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết, mỗi người giáo viên cần biết tự rèn luyện, tự học tập, tự sáng tạo để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu và rèn luyện, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, góp phần sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. VI. Kết luận: 1. Hiệu quả: Khi vận dụng các giải pháp, biện pháp trên vào việc hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 4, bản thân đã giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt, biết Trang 10
  6. - Tổ chức các cuộc thi (đọc hay, viết đẹp) các chuyên đề hội thảo về dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn tập đọc nói riêng. b. Đối với phụ huynh học sinh: Cần trang bị cho con em mình đầy đủ dụng cụ học tập, sách tham khảo nhằm bổ sung vốn kiến thức văn học. c. Đối với học sinh: Cần chăm chỉ tự giác học tập, phải chuẩn bị bài ở nhà, đọc bài và tự tìm hiểu nội dung bài trước khi đến lớp. Tìm hiểu, trau dồi những kiến thức trong sách vở, báo truyện qua lời truyền thụ của thầy cô Trên đây là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc kết được trong suốt quá trình giảng dạy ở chương trình lớp 4. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của quý đồng nghiệp, Ban giám khảo và các cấp lãnh đạo để tôi có thêm những kinh nghiệm cho chuyên môn cũng như phương pháp sư phạm giúp tôi phục vụ cho ngành tốt hơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiế Huỳnh Thanh Chớn Trang 12