SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2 - Liêu Đức Trí

* Đặc điểm tình hình:

Năm học 2018 – 2019, tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp 2B, với sỉ số là 24 học sinh. Trong đó có 15 em nam và 9 em nữ. Trong 2 tuần đầu làm quen với các em, tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh là vùng nông thôn nên cha mẹ ít quan tâm đến mọi mặt của con cái, nhất là sức khỏe và học tập. Bên cạnh đó số đông học sinh con nông dân, nhiều em cha mẹ làm ăn xa,sống ở nhà với ông bà. Với đặc điểm lớp tôi như thế nên có một số thuận lợi và khó khăn như sau:

1. Thuận lợi:

- Chương trình đã được giảng dạy nhiều năm. Giáo viên đã có những kinh nghiệm giảng dạy, đã được thao giảng và dự giờ chuyên đề về môn toán, có sự trao đổi, rút ra kinh nghiệm các tiết dạy.

- Cơ sở vật chất trường đủ đảm bảo việc học tập cho các em. Đa số học sinh có ý thức học tốt, được cha mẹ quan tâm chu đáo. Riêng  bản thân tôi luôn tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, tài liệu tham khảo và học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực sao cho đạt hiệu quả cao nhất và tạo hứng thú, niềm say mê học tập cho học sinh trong giờ toán.

- Số lượng học sinh tương đối vừa phải, học sinh có đủ các điều kiện để học tập.

2. Khó khăn:

- Một số học sinh, chủ yếu cha mẹ là nông dân, làm mướn, làm ăn xa. nên không có điều kiện quan tâm tới việc học tập của các em.

Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em cần phải có người nhắc nhở.

+ Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.

+ Thời gian học tập của các em còn hạn chế, các em còn ham chơi hơn ham học.

+ Một số em chưa nắm được kiến thức về thực hành phép công.trừ có nhớ, giải toán có lời văn thiếu chính xác nên thường làm toán sai.

- Với những thuận lợi và khó khăn như vậy tôi đã tìm ra một số biện pháp nhằm giúp các em học tốt phân môn toán.

docx 14 trang minhlee 06/03/2023 4200
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2 - Liêu Đức Trí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_mon_toan_lop_2_l.docx

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2 - Liêu Đức Trí

  1. - Đầu năm học tôi tranh thủ xem lại hồ sơ lý lịch của học sinh, tìm hiểu qua giáo viên chủ nhiệm năm trước và bạn bè trong lớp học, gặp và trao đổi với phụ huynh học sinh. Từ đó tôi nắm được sơ bộ về hoàn cảnh gia đình năng lực học tập và luôn cả cá tính của từng em. Tất cả những gì tìm hiểu được tôi đều ghi vào sổ tay theo dõi riêng. Đánh dấu (*) cần chú ý một số em cá biệt để tiện theo dõi. - Việc sắp xếp chỗ ngồi cũng góp phần không nhỏ trong việc năng cao chất lượng. Tôi sắp xếp những em học tốt ngồi cạnh những em học chưa tốt để các em có điều kiện giúp đỡ nhau trong quá trình học tập. - Đối với học sinh lớp 2 là độ tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” hay quên. Nên khi cần cho học sinh ghi nhớ vấn đề nào đó, tôi hay dùng những cụm từ ngắn gọn gần gũi thực tế để các em dể nhớ. - Việc ôn lại kiến thức cũ cũng góp phần khá quan trọng trong việc học toán. Nên ở cuối lớp học tôi tạo cho các em một góc học tập có ghi lại các nội dung cần thiết để các em ôn luyện. - Trong tiết dạy tôi luôn sử dụng đầy đủ các thiết bị dạy học một cách hợp lý và hiệu quả, tổ chức thi đua, vui chơi Bên cạnh đó, tôi thường xuyên quan tâm gần gũi chỉ dạy học sinh nắm bài chậm trong từng tiết học, giờ ra chơi, cuối buổi học, luôn tạo không khí vui tươi, cởi mở, tạo điều kiện cho hoc sinh phấn khởi khi đến lớp, hứng thú trong học tập. Đặc biệt đối với học sinh học chưa tốt, tôi quyết tâm không bao giờ để các em ngồi bên lề lớp học, quan tâm khích lệ đến những thành tích dù nhỏ nhất của các em. Tôi luôn xử sự khéo léo để các em không mặc cảm. - Xây dựng cho các em có nề nếp tự học ở lớp cũng như ở nhà. - Tùy theo mức độ của học sinh. Tôi có một số biện pháp phù hợp để giúp đỡ các em chiếm lĩnh kiến thức một cách hiệu quả nhất. - Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố, thực hành trực tiếp các kiến thức mới, tôi vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp học tập cho các em. SKKN Trang 5
  2. - Giáo viên giới thiệu bài toán: có 29 que tính, thêm 5 que tính nữa. Hỏi tất cả có bao nhiêu que tính ? - Nhằm bước đầu giúp học sinh tìm kết quả bằng cách thao tác que tính. Giáo viên nêu và thể hiện các hình ảnh minh hoạ thao tác trên que tính như (Sách giáo khoa). * Biện pháp 2: - Hình thành “quy tắc tính” gồm 2 bước: Đặt tính và tính. Yêu cầu học sinh biết cách thực hiện phép tính và thuộc quy tắc tính. Ví dụ 1: 29 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1 + 5 2 thêm 1 bằng 3, viết 3 34 Vậy 29 + 5 = 34 - Quy tắc tính rõ ràng như thế nhưng vẫn còn một số em làm sai. Vì các em không thuộc bảng cộng hay thuộc rồi lại quên. - Tôi bắt đầu dùng cách khác để giúp các em có thể tính đúng. Đó là cách: - Dùng que tính đếm thêm 1 cho đến hết. Ví dụ 2: 9 + 5 = ? (9 thêm 1 bằng 10, 10 thêm 1 bằng 11, 11 thêm 1 bằng 12, 12 thêm 1bằng 13, 13 thêm 1 bằng 14). Vậy 9 + 5 = 14 - Sau đó tiến tới bước tính dọc (đây là bước tôi thực hiện trong 2 năm qua). Ví dụ3: 29 + ●5 34 - Yêu cầu học sinh lấy 9 que tính rồi đếm thêm 1 đến hết 5 que tính nữa được 14 que tính, viết 4 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 5 (● xem như 1) để khi tính bước tiếp theo 2 gặp (●) nhớ cộng thêm 1 bằng 3 viết 3 Ví dụ 4: 28 +●14 42 - Học sinh lấy 8 que tính, rồi đếm thêm 1 đến hết 4 que tính nữa được 12, viết 2 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 1 (● xem như 1), để khi tính bước tiếp theo 2 cộng 1 bằng 3 gặp (●) cộng thêm 1 bằng 4 viết 4. - Tiến hành tương tự với các bài còn lại. * Lưu ý: - Làm sao có thể biết bài tính có nhớ hay không nhớ ? - Cho học sinh lấy 2 chữ số ở hàng đơn vị cộng lại, nếu kết quả nhỏ hơn 10 là tính không nhớ. Kết quả bằng 10 hoặc lớn hơn 10 ta chỉ viết chữ số sau cùng và nhớ 1 ở hàng chục. Ví dụ 1: 28 + 11 9 SKKN Trang 7
  3. - 2 nhỏ hơn 8 lấy thêm 1 chục được 12 trừ 8 (bằng cách lấy 12 que tính bớt 8 que tính còn 4 que tính) viết 4 nhớ 1 (ghi ● trước số 1) dấu (●) xem như 1. (Khi thực hiện bước tính tiếp theo ta nhớ thêm 1 vào chữ số vừa chấm rồi mới tiến hành trừ và ghi kết quả thẳng cột với cột chục). 2 thêm 1 bằng 3, 5 trừ 3 bằng 2, viết 2. - Qua 3 ví dụ trên tôi khắc sâu cho học sinh nhớ: chữ số ở hàng đơn vị của số bị trừ là “mấy” ta sẽ lấy “mười mấy”để trừ (là số 2 lấy 12, là số 3 lấy 13, là số 4 lấy 14, là số 5 lấy 15 ). - Trong trường hợp học sinh còn lẫn lộn “lấy số lớn ở dưới trừ ngược số nhỏ ở trên”. Tôi sẽ khắc sâu cho các em “lấy số trên trừ số dưới” và “trừ từ phải sang trái”. - Nếu còn học sinh làm chưa được tôi hướng dẫn thêm cách khác: Tôi cho các em làm bài trên giấy nháp rồi sau đó mới ghi vào tập hoặc giấy kiểm tra (không ghi chữ số khoanh tròn và các vạch thẳng). Ví dụ: Bước 1: ﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍ 52 -●28 4 vạch 12 vạch rồi bỏ 8 vạch còn 4 vạch, viết 4 nhớ 1, ghi (●) trước số 2 Bước 2: .gặp (●) thêm 1 được 3 viết  2 52 ﺍﺍﺍﺍﺍ -●28 24 Vạch 5 vạch, rồi bỏ 3vạch còn 2 vạch, viết 2 ở cột chục của bài toán. 3.3.3. Về tính giá trị biểu thức - Khi gặp dạng toán này học sinh thường lúng túng không biết làm phép tính nào trước hoặc làm 1 phép tính mà thôi. Đối với loại toán này tôi thường nhấn mạnh cho học sinh nhận biết biểu thức có mấy phép tính? (2 phép tính). Ta thực hiên theo 2 lần tính. Thứ tự thực hiện từ trái sang phải và gạch dưới phép tính thực hiện trước để học sinh dể tính. Ví dụ: 3 x 3 + 6 = 9 + 6 *3 nhân 3 bằng 9 viết 9. Lấy 9 cộng 6 bằng = 15 15 viết 15. 25 : 5 – 3 = 5 – 3 *25 chia 5 bằng 5 viết 5.Lấy 5 trừ 3 bằng 2 = 2 viết 2. 3.3.4. Bài tập dạng tìm x - Khi dạy các bài này, yêu cầu học sinh dựa vào mối quan hệ giữa thành phần tên gọi, kết quả phép tính và quy tắc tính để tìm x. Nhưng khi làm bài các em không nhớ được quy tắc tính, nên tôi hình thành một cách nhớ riêng: * Dạng x+a = b (Gặp phép tính cộng ta thực hiện tính trừ a + x = b (Lấy số lớn trừ số bé). Nêu quy tắc muốn tìm số hạng chưa biết ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. Ví dụ 1: x + 7 = 10 X = 10 – 7 (10 là số lớn, 7 là số bé). X = 3 SKKN Trang 9
  4. - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải. - Bỏ chữ “hỏi” và chữ “bao nhiêu”. - Thêm vào chữ “là” ta sẽ được lời giải. Ví dụ: Bình có 10 cái kẹo, Quang có 5 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo? (Cả hai bạn có cái kẹo là). Cách 2: - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải. - Thay chữ “số” và “đơn vị” vào chỗ chữ hỏi. - Thêm chữ “là” cuối câu ta được lời giải. (Số cái kẹo cả hai bạn có là) Trường hợp ngoại lệ rất ít. Khi gặp trường hợp đó tôi hướng dẫn thêm cho học sinh. - Về đơn vị học sinh hay nhầm. Nên tôi chỉ cho học sinh nhận ra “đơn vị” thường là những chữ gần ở trước dấu (?). Ví dụ: (cái kẹo). - Với các hình thức hỗ trợ cho các em trong việc học tốt môn toán nêu trên. Tôi nhận thấy các em đã từng bước tiến bộ làm tính chính xác, có tự tin. Không còn ỷ lại chờ bạn kế bên. Các em đã nhận thức được việc học tập do chính bản thân các em gặt hái được. Song trong quá trình học tập các em được làm các bài tập liên tục lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ giúp các em củng cố ghi nhớ trong tìm thức các em, giúp các em thuộc lòng bảng cộng, bảng trừ lúc nào mà chính bản thân các em cũng không hay. Thực hiện đúng các bài toán dạng tìm thành phần chưa biết của phép tính và giải đúng các bài toán có lời văn. Khi thực hiện các biện pháp trên tôi thấy các em có chuyển biến rất nhiều. Và qua kiểm nghiệm cả hai năm học qua những đối tượng học sinh tiếp thu chậm từng bước có tiến bộ. IV. Hiệu quả đạt được * Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến. + Trước khi áp dụng sáng kiến. Trước khi áp dụng sáng kiến, tình trạng học sinh không nắm vững kiến thức về toán có lời văn còn rất nhiều. Các em không biết thực hiện các bước giải cũng như thực hiện phép tính còn sai cũng như đặt lời giải chưa chính xác. + Sau khi áp dụng sáng kiến. Sau khi áp dụng các biện pháp này vào thực tiễn dạy học. Tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Học sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Sau khi các biện pháp được áp dụng, tôi và các đồng nghiệp đều nhận thấy các em có sự chuyển biến rõ rệt. Các em không còn mắc những lỗi như trước, thay vào đó, các em biết đặt tính rõ ràng, không còn nhầm lẫn nữa nên các kết quả tính được có tính chính xác cao. Việc giải toán có lời văn cũng trở nên dễ dàng và gần gũi với các em hơn. SKKN Trang 11
  5. rất yêu quí thầy giáo của mình. Đây là điều mà bất kì một giáo viên nào cũng luôn luôn mong ước. Đối với môn Toán lớp 2 thì các biện pháp đã nêu trên là hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên đứng lớp. Vì vậy, những giải pháp trên đã được tôi, các đồng nghiệp khác trong và ngoài đơn vị của Thị xã Tân Châu áp dụng ngày càng rộng rãi thông qua những cuộc họp và những lần nói chuyện trao đổi về chuyên môn. Không những vậy, bạn bè đồng nghiệp ở các huyện, thị trong tỉnh cũng cùng tôi chia sẻ, áp dụng rất nhiều. Hầu hết tất cả đều thấy được tính khả thi của sáng kiến trên và cần áp dụng trong thực tế giảng dạy. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy rằng, muốn vận dụng tốt và đạt được hiệu quả cao từ các giải pháp trên thì đòi hỏi ở giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiều. Cần phải kiên trì và tận tụy, theo dõi và uốn nắn các em kịp thời. Dù có khó khăn đến đâu, các em có bị hỏng kiến thức như thế nào người giáo viên cũng không được nản lòng, phải thật sự quyết tâm mới có thể giúp đỡ các em, không được nóng vội vì các em còn nhỏ, cần được uốn nắn và giáo dục hàng ngày, hàng giờ chứ không phải một thời gian ngắn là được. Nếu thực hiện được các yêu cầu trên, tôi tin chắc rằng chất lượng dạy học môn toán lớp 2 nói chung và toán cộng, trừ có nhớ, tìm X, toán có lời văn nói riêng sẽ ngày càng được nâng cao. Là một giáo viên phụ trách giảng dạy, tôi thiết nghĩ không có niềm vui nào bằng niềm vui khi thấy học sinh của mình học tập tiến bộ hằng ngày. Một giờ dạy tốt không thể là một giờ dạy mà giáo viên cứ thao thao diễn xuất như một diễn viên mặc cho người học muốn thưởng thức làm sao thì làm. Phải dạy làm sao cho học sinh cảm thấy háo hức và phát huy hết khả năng học tập của các em. Ý thức được tầm quan trọng của giờ học toán hoàn cảnh nào tôi cũng không ngừng học tập phấn đấu vươn lên vì thế hệ trẻ, để có một giờ dạy tốt hơn nhiều. Qua kết quả học tập của học sinh lớp 2, các đồng nghiệp trong khối cũng nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả. * Đối Với bản thân - Người giáo viên khi đứng lớp phải thân thiện, gần gũi, kiên trì, yêu thương học sinh. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra, từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc để kịp thời đưa ra các giải pháp sao cho phù hợp với học sinh lớp mình. - Cần phối hợp cùng với gia đình trong việc kiểm tra, đôn đốc quá trình học của các em. - Luôn động viên, khuyến khích các em khi các em có tiến bộ trong quá trình học. - Đối với giáo viên, phải “có tâm, có tầm”, phải tích cực chủ động tự học, tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề qua sách tham khảo, báo chí, qua đồng nghiệp; phải nhiệt tình, có trách nhiệm cao, có tính kiên trì, hết lòng hết mực thương yêu, giúp đỡ học sinh. Với lòng yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm, tôi tin rằng tất cả đội ngũ của chúng ta sẽ làm được và sẽ hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của địa phương. Như vậy, chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. * Đối với tổ khối: SKKN Trang 13